Quy trình tầm soát ung thư buồng trứng
Để tầm soát ung thư buồng trứng, trước tiên, bác sĩ sẽ thăm khám lâm sàng, khai thác tiền sử người bệnh, hỏi về các triệu chứng, tiền sử bệnh cá nhân và gia đình. Sau đó, bác sĩ sẽ kiểm tra phần khung chậu là phần tiếp xúc bên ngoài của các bộ phận sinh dục (âm hộ), âm đạo, tử cung và buồng trứng để xem những thay đổi bất thường nếu có.
Các xét nghiệm tầm soát ung thư buồng trứngcó thể được chỉ định
- Siêu âm ổ bụng: phụ nữ cần phải được siêu âm định kỳ vùng chậu để phát hiện những bất thường của cơ quan sinh dục (nhất là buồng trứng). Hình ảnh bất thuờng của buồng trứng kết hợp với chất đánh dấu ung thư trong máu cho giá trị chẩn đoán cao.

Phụ nữ cần phải được siêu âm định kỳ vùng chậu để phát hiện những bất thường của cơ quan sinh dục (nhất là buồng trứng).
- Xét nghiệm máu tìm chất chỉ điểm ung thư CA 125: đây là một chất đánh dấu ung thư, nó tăng nồng độ trong máu có liên quan đến ung thư buồng trứng. Tuy nhiên trong những ung thư khác như đại tràng, tiền liệt tuyến, phổi thì nó cũng tồn tại. Lysophosphatidic acid – lipid lysophosphatidic acid (LPA) trong máu có liên quan đến ung thư buồng trứng. LPA tăng ở 96% các bệnh nhân bị ung thư buồng trứng và hiện diện ở 90% khi bệnh ở giai đoạn I.
- Phết cổ tử cung (PAPs mear): cũng có giá trị phát hiện 10 – 30% các trường hợp ung thư buồng trứng.
- Chụp cắt lớp vi tính CT hoặc Chụp cộng hưởng từ MRI được chỉ định trường hợp muốn đánh giá mức độ khối u hoặc tìm dấu hiệu bệnh ở các khu vực khác trên cơ thể. Chụp Xquang được sử dụng với mục đích phát hiện ra liệu các khu vực khác của cơ thể chẳng hạn như phổi có bị ảnh hưởng hay không.

Chụp cắt lớp vi tính CT hoặc Chụp cộng hưởng từ MRI được chỉ định trường hợp muốn đánh giá mức độ khối u hoặc tìm dấu hiệu bệnh ở các khu vực khác trên cơ thể. (hình minh họa)
- Sinh thiết: để khẳng định chẩn đoán ung thư và loại ung thư này có nguồn gốc từ buồng trứng, phẫu thuật thăm dò và sinh thiết sẽ được thực hiện.
Tỉ lệ sống còn của ung thư buồng trứng ung thư buồng trứng liên quan đến giai đoạn chẩn đoán, tỉ lệ sống 5 năm ở người phát hiện bệnh ở giai đoạn I là trên 90% và giảm còn 75 – 80% nếu tổn thương còn trong vùng, đối với di căn xa thì tỉ lệ này là 25%.